I have heard that: On one occasion the Blessed One was staying among the Sakyans at Kapilavatthu in the Banyan Park. Then in the early morning, the Blessed One, having put on his robes and carrying his bowl and outer robe, went into Kapilavatthu for alms. Having gone for alms in Kapilavatthu, after the meal, returning from his alms round, he went to the dwelling of Kala-khemaka the Sakyan for the day's abiding. Now at that time many resting places had been prepared in Kala-khemaka the Sakyan's dwelling. The Blessed One saw the many resting places prepared there and, on seeing them, the thought occurred to him, "There are many resting places prepared here. Do many monks live here?"


Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú giữa các ḍng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở tu viện Nigrodha (Ni-câu-luật Thọ Viên). Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Kapilavatthu để khất thực. Sau khi đi khất thực ở Kapilavatthu, ăn xong, trên đường đi khất thực trở về, Thế Tôn đi đến trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka để ở ban ngày. Lúc bấy giờ, tại tu viện của Thích-ca Kalakhemaka, có sắp đặt rất nhiều sàng tọa. Thế Tôn thấy rất nhiều sàng tọa tại trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka, thấy vậy Thế Tôn suy nghĩ : "Rất nhiều sàng tọa được sắp đặt tại tu viện của Thích-ca Kalakhemaka. Không biết ở đấy có rất nhiều Tỷ-kheo ở không ?"

 

Now at that time Ven. Ananda, together with many other monks, was making robes at the dwelling of Ghata the Sakyan. Then, when it was evening, the Blessed One rose from seclusion and went to the dwelling of Ghata the Sakyan. On arrival, he sat down on a seat made ready. Having sat down, he asked Ven. Ananda, "There are many resting places prepared in Kala-khemaka the Sakyan's dwelling. Do many monks live there?"

Lúc bấy giờ Tôn giả Ananda cùng với rất nhiều vị Tỷ-kheo đang làm y (civarakamma) ở trú xứ của Thích-ca Ghataya. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến trú xứ của Thích-ca Ghataya, sau khi đến liền ngồi trên chỗ đă soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda : – Này Ananda, có rất nhiều sàng tọa được sắp đặt tại trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka. Không biết có nhiều Tỷ-kheo trú ở đấy không.

 

"Yes, lord, there are many resting places prepared in Kala-khemaka the Sakyan's dwelling. Many monks live there. Our time for making robes has come around."

– Bạch Thế Tôn, có rất nhiều sàng tọa được sắp đặt ở trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka; có rất nhiều Tỷ-kheo trú tại chỗ ấy. Bạch Thế Tôn, nay là thời chúng con làm y.

 

"Ananda, a monk does not shine if he delights in company, enjoys company, is committed to delighting in company; if he delights in a group, enjoys a group, rejoices in a group. Indeed, Ananda, it is impossible that a monk who delights in company, enjoys company, is committed to delighting in company; who delights in a group, enjoys a group, rejoices in a group, will obtain at will — without difficulty, without trouble — the pleasure of renunciation, the pleasure of seclusion, the pleasure of peace, the pleasure of self-awakening. But it is possible that a monk who lives alone, withdrawn from the group, can expect to obtain at will — without difficulty, without trouble — the pleasure of renunciation, the pleasure of seclusion, the pleasure of peace, the pleasure of self-awakening.

– Này Ananda, một Tỷ-kheo không chói sáng nếu thích thú trong hội chúng của ḿnh, nếu hân hoan trong hội chúng của ḿnh, nếu hoan hỷ trong hội chúng của ḿnh, nếu thích thú trong hội chúng của người, nếu hân hoan trong hội chúng của người, nếu hoan hỷ trong hội chúng của người. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo nào thích thú trong hội chúng của ḿnh, hân hoan trong hội chúng của ḿnh, hoan hỷ trong hội chúng của ḿnh, thích thú trong hội chúng của người, hân hoan trong hội chúng của người, hoan hỷ trong hội chúng của người, có thể là một vị chứng đắc tùy theo ư muốn, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; sự kiện như vậy không xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một ḿnh, xa lánh tụ hội, thời vị ấy có hy vọng chứng đắc tùy theo ư muốn, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc

 

"Indeed, Ananda, it is impossible that a monk who delights in company, enjoys company, is committed to delighting in company; who delights in a group, enjoys a group, rejoices in a group, will enter & remain in the awareness-release that is temporary and pleasing, or in the awareness-release that is not-temporary and beyond provocation. But it is possible that a monk who lives alone, withdrawn from the group, can expect to enter & remain in the awareness-release that is temporary and pleasing, or in the awareness-release that is not-temporary and beyond provocation.

Sự kiện như vậy có thể xảy ra, này Ananda, nếu Tỷ-kheo nào thích thú trong hội chúng của ḿnh, hân hoan trong hội chúng của ḿnh, hoan hỷ trong hội chúng của ḿnh, thích thú trong hội chúng của người, hân hoan trong hội chúng của người, hoan hỷ trong hội chúng của người sẽ chứng đắc và an trú với tâm giải thoát có hạn kỳ và thoải mái hay không có hạn kỳ và bất động; sự kiện như vậy không xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một ḿnh, xa lánh tụ hội, thời vị ấy có hy vọng sẽ chứng đắc và an trú với tâm giải thoát có hạn kỳ và thoái mái, hay không có hạn kỳ và bất động; sự kiện như vậy có xảy ra.

 

"Ananda, I do not envision even a single form whose change & alteration would not give rise to sorrow, lamentation, pain, distress, & despair in one who is passionate for it and takes delight in it.

Này Ananda, Ta không quán thấy một sắc pháp nào trong ấy có hoan hỷ, trong ấy có hoan lạc, chịu sự biến dịch, chịu sự đổi khác mà không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo.

 

"But there is this (mental) dwelling discovered by the Tathagata where, not attending to any themes, he enters & remains in internal emptiness. If, while he is dwelling there by means of this dwelling, he is visited by monks, nuns, lay men, lay women, kings, royal ministers, sectarians & their disciples, then — with his mind bent on seclusion, tending toward seclusion, inclined toward seclusion, aiming at seclusion, relishing renunciation, having destroyed those qualities that are the basis for mental fermentation — he converses with them only as much is necessary for them to take their leave.1

Nhưng sự (an) trú này, này Ananda, đă được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tức là sau khi không tác ư với tất cả tướng, chứng đắc và (an) trú nội không. Và nếu này Ananda, trong khi Như Lai an trú trong an trú này, nếu có những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, quốc vương, đại thần, ngoại đạo, ngoại đạo đệ tử đến yết kiến, trong khi ấy, này Ananda, Như Lai với tâm hướng đến viễn ly, thiên về viễn ly, nặng nề viễn ly, sống độc cư, hoan hỷ trong ly dục, làm cho đoạn tận tất cả các pháp dựa trên các lậu hoặc an trú, nói lên tại chỗ ấy những lời thuần túy liên hệ đến khích lệ.

 

"So, Ananda, if a monk should wish, 'May I enter & remain in internal emptiness,' then he should get the mind steadied right within, settled, unified, & concentrated. And how does the monk get the mind steadied right within, settled, unified, & concentrated? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensual pleasures, withdrawn from unskillful qualities — enters & remains in the first jhana... the second jhana... the third jhana... the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. That is how a monk gets the mind steadied right within, settled, unified, & concentrated.

Do vậy, này Ananda, nếu Tỷ-kheo ước vọng : "Sau khi chứng đạt nội không, ta sẽ an trú", vị Tỷ-kheo ấy, này Ananda, cần phải an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm. Và này Ananda, như thế nào Tỷ-kheo an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm ? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhứt tâm... Tam thiền... chứng và trú Tứ thiền. Như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm.

 

"He attends to internal emptiness. While he is attending to internal emptiness, his mind does not take pleasure, find satisfaction, grow steady, or indulge in internal emptiness. When this is the case, he discerns, 'While I am attending to internal emptiness, my mind does not take pleasure, find satisfaction, grow steady, or indulge in internal emptiness.' In this way he is alert there.

Vị ấy tác ư nội không. Trong khi vị ấy tác ư nội không, tâm không thích thú, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến nội không. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ư nội không, tâm không thích thú, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến nội không". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"He attends to external emptiness...2

Vị ấy tác ư ngoại không....

 

"He attends to internal & external emptiness...

Vị ấy tác ư nội ngoại không...

 

"He attends to the imperturbable.3 While he is attending to the imperturbable, his mind does not take pleasure, find satisfaction, grow steady, or indulge in the imperturbable. When this is the case, he discerns, 'While I am attending to the imperturbable, my mind does not take pleasure, find satisfaction, grow steady, or indulge in the imperturbable.' In this way he is alert there.

Vị ấy tác ư bất động. Trong khi vị ấy tác ư bất động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú hướng đến bất động. Sự kiện là như vậy, này Ananda, vị Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ư bất động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến bất động". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"When that is the case, he should get the mind steadied right within, settled, unified, & concentrated in his first theme of concentration.

Này Ananda, Tỷ-kheo ấy cần phải an trú, an tọa, chuyên nhất, và an định nội tâm trên định tướng (samadhinimitte) đă đề cập về trước ấy.

 

"He then attends to internal emptiness. While he is attending to internal emptiness, his mind takes pleasure, finds satisfaction, grows steady, & indulges in internal emptiness. When this is the case, he discerns, 'While I am attending to internal emptiness, my mind takes pleasure, finds satisfaction, grows steady, & indulges in internal emptiness.' In this way he is alert there.

Vị ấy tác ư nội không. Trong khi vị ấy tác ư nội không, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến nội không. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ư nội không, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến nội không". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"He attends to external emptiness...

Vị ấy tác ư ngoại không....

 

"He attends to internal & external emptiness...

Vị ấy tác ư nội ngoại không....

 

"He attends to the imperturbable. While he is attending to the imperturbable, his mind takes pleasure, finds satisfaction, grows steady, & indulges in the imperturbable. When this is the case, he discerns, 'While I am attending to the imperturbable, my mind takes pleasure, finds satisfaction, grows steady, & indulges in the imperturbable.' In this way he is alert there.

Vị ấy tác ư bất động. Trong khi vị ấy tác ư bất động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú hướng đến bất động. Sự kiện là như vậy, này Ananda, vị Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ư bất động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến bất động". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"If, while the monk is dwelling by means of this dwelling, his mind inclines to walking back & forth, he walks back & forth [thinking,] 'While I am walking thus, no covetousness or sadness, no evil, unskillful qualities will take possession of me.' In this way he is alert there.

Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy đang an trú trong an trú này, tâm vị ấy hướng đến đi kinh hành, vị ấy đi kinh hành (cankamati), và nghĩ rằng: "Trong khi ta đang đi kinh hành, thời tham và ưu, các ác bất thiện pháp không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"If, while he is dwelling by means of this dwelling, his mind inclines to standing, he stands down, [thinking,] 'While I am standing thus, no covetousness or sadness, no evil, unskillful qualities will take possession of me.' In this way he is alert there.

Này Ananda, nếu Tỷ-kheo đang an trú trong an trú này, tâm vị ấy hướng đến đứng lại, vị ấy đứng lại và nghĩ rằng : "Trong khi ta đang đứng lại thời tham và ưu, các ác bất thiện pháp không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"If, while he is dwelling by means of this dwelling, his mind inclines to sitting, he sits down, [thinking,] 'While I am sitting down thus, no covetousness or sadness, no evil, unskillful qualities will take possession of me.' In this way he is alert there.

Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến ngồi, vị ấy ngồi và nghĩ rằng : "Trong khi ta đang ngồi, tham và ưu, các ác bất thiện pháp không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"If, while he is dwelling by means of this dwelling, his mind inclines to lying down, he lies down, [thinking,] 'While I am lying down thus, no covetousness or sadness, no evil, unskillful qualities will take possession of me.' In this way he is alert there.

Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến nằm, vị ấy nằm và nghĩ rằng : "Trong khi ta đang nằm, thời tham và ưu, các ác bất thiện pháp không chảy vào". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"If, while he is dwelling by means of this dwelling, his mind inclines to speaking, he resolves that 'I will not engage in talk that is base, vulgar, common, ignoble, unbeneficial, that does not lead to disenchantment, dispassion, cessation, calm, direct knowledge, self-awakening, or Unbinding — i.e., talk about kings, robbers, & ministers of state; armies, alarms, & battles; food & drink; clothing, furniture, garlands, & scents; relatives; vehicles; villages, towns, cities, the countryside; women & heroes; the gossip of the street & the well; tales of the dead; tales of diversity, the creation of the world & of the sea; talk of whether things exist or not.' In this way he is alert there.

Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến nói, vị ấy suy nghĩ như sau : "Ta sẽ không nói những câu chuyên hạ liệt, đê tiện, thuộc phàm phu, không thuộc bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly dục, đoạn tiệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ. Niết-bàn, như quốc vương luận, đạo tặc luận, đại thần luận, quân luận, bố úy luận, chiến tranh luận, thực vật luận, ẩm liệu luận, y phục luận, ngọa cụ luận, hoan man luận, hương liệu luận, thân thích luận, xa thừa luận, thôn luận, thị trấn luận, đô thị luận, quốc độ luận, nữ luận, anh hùng luận, hạng trung luận, thủy b́nh xứ luận, tiên linh luận, sai biệt luận, thế giới luận, hải thuyết luận, hữu vô hữu luận. Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"'But,' [he resolves,] 'I will engage in talk that is scrupulous, conducive to release of awareness, and leads exclusively to disenchantment, dispassion, cessation, calm, direct knowledge, self-awakening, & Unbinding — i.e., talk on modesty, contentment, seclusion, non-entanglement, arousing persistence, virtue, concentration, discernment, release, and the knowledge & vision of release.' In this way he is alert there.

Nhưng này Ananda, đối với những lời nói nào khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhứt hướng yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, như thiểu dục luận, tri túc luận, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri kiến luận, vị ấy nghĩ : "Ta sẽ nói các luận như vậy". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"If, while he is dwelling by means of this dwelling, his mind inclines to thinking, he resolves that 'I will not think thoughts that are base, vulgar, common, ignoble, unbeneficial, that do not lead to disenchantment, dispassion, cessation, calm, direct knowledge, self-awakening, or Unbinding — i.e., thoughts of sensuality, thoughts of ill will, thoughts of harmfulness.' In this way he is alert there.

Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi an trú với sự an trú này, tâm hướng đến suy tầm (vitakka), vị ấy suy nghĩ : "Đối với những suy tầm hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không thuộc bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, như là dục tầm, sân tầm, hại tầm, ta sẽ không suy nghĩ các loại suy tầm ấy". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"'But,' [he resolves,] 'I will think thoughts that are noble, onward-leading, that lead to the right ending of stress for the person who acts on them — i.e., thoughts of renunciation, thoughts of no ill will, thoughts of harmlessness.' In this way he is alert there.

Nhưng này Ananda, đối với những suy tầm này, thuộc bậc Thánh, có khả năng cầu tiến, hướng dẫn (người suy nghĩ các suy tầm ấy) đến sự đoạn trừ hoàn toàn đau khổ, như là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, vị ấy nghĩ : "Ta sẽ suy tư các loại suy tầm này". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"Ananda, there are these five strings of sensuality. Which five?
-Forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing.
-Sounds cognizable via the ear...
-Aromas cognizable via the nose...
-Flavors cognizable via the tongue...
-Tactile sensations cognizable via the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing.
These are the five strings of sensuality where a monk should reflect on his mind repeatedly: 'Is there within me, in any circumstance or another, any engagement of awareness that arises with regard to these five strings of sensuality?' If, on reflection, the monk discerns, 'There is within me, in one circumstance or another, an engagement of awareness that arises with regard to these five strings of sensuality,' then — this being the case — he discerns that 'Desire-passion for the five strings of sensuality has not been abandoned by me.' But if, on reflection, he discerns, 'There is not within me, in any circumstance or another, any engagement of awareness that arises with regard to these five strings of sensuality,' then — this being the case — he discerns that 'Desire-passion for the five strings of sensuality has been abandoned by me.' In this way he is alert there.



Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm ?
-Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, liên hệ đến dục, hấp dẫn;
-Các tiếng do tai nhận thức;...
-Các hương do mũi nhận thức;...
-Các vị do lưỡi nhận thức;...
-Các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng này. Từ đây Tỷ-kheo cần phải thường thường quán sát tự tâm như sau :
"Trong tâm ta, có khởi lên tâm hành ǵ với xứ (ayatana) này hay xứ khác của năm dục trưởng dưỡng". Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát như vậy, tuệ tri rằng: "Trong tâm ta, có khởi lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của năm dục trưởng dưỡng.. ". Sự kiện là như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri như sau: "Dục ái (chandaraga) này đối với năm dục trưởng dưỡng đối với ta, chưa đoạn diệt được". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát như vậy, tuệ tri rằng : "Trong tâm ta, không có khởi lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của năm dục trưởng dưỡng.. ". Sự kiện là như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri như sau: "Dục tham này đối với năm dục trưởng dưỡng đối với ta, đă được đoạn diệt". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"There are these five clinging-aggregates where a monk should stay, keeping track of arising & passing away (thus):
-'Such is form, such its origination, such its disappearance.
-Such is feeling...
-Such is perception...
-Such are fabrications...
-Such is consciousness, such its origination, such its disappearance.'
As he stays keeping track of arising & passing away with regard to these five clinging-aggregates, he abandons any conceit that 'I am' with regard to these five clinging-aggregates. This being the case, he discerns, 'I have abandoned any conceit that "I am" with regard to these five clinging-aggregates.' In this way he is alert there.



Này Ananda, có năm thủ uẩn. Ở đây, Tỷ-kheo cần phải đoạn tận chúng, khi vị ấy tùy quán sự sanh diệt.
-Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn diệt của sắc.
Đây là thọ, đây là sự tập khởi của thọ, đây là sự đoạn diệt của thọ.
-Đây là tưởng...
-Đây là hành...
-Đây là thức, đây là sự tập khởi của thức, đây là sự đoạn diệt của thức.
Trong khi vị ấy an trú, tùy quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này, nếu có ngă mạn nào (asmimmano) (khởi lên) đối với năm thủ uẩn, ngă mạn ấy được đoạn tận. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo tuệ tri như sau : "Phàm có ngă mạn nào đối với năm thủ uẩn (khởi lên) nơi ta, ta đă đoạn tận ngă mạn ấy". Ở đây, vị ấy ư thức rơ ràng như vậy.

 

"These qualities, Ananda, are exclusively skillful in their grounding, noble, transcendent, inaccessible to the Evil One.

Những pháp này, này Ananda, thuần nhất liên hệ đến thiện, đều thuộc hiền, Thánh, siêu thế, vượt ngoài tầm của ác ma.

 

"What do you think, Ananda: When envisioning what aim is it proper for a disciple to follow after the Teacher even when being rebuked?"

– Này Ananda, Ông nghĩ thế nào ? V́ thấy lư do ǵ, một Thanh văn Đệ tử tự nghĩ là xứng đáng (hợp lư) để đi theo một Đạo sư dầu cho bị hất hủi ?

 

"For us, lord, the teachings have the Blessed One as their root, their guide, & their arbitrator. It would be good if the Blessed One himself would explicate the meaning of this statement. Having heard it from the Blessed One, the monks will remember it."

– Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lănh đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng cho ư nghĩa này. Sau khi được nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ hành tŕ.

 

"Ananda, it's not proper for a disciple to follow after the Teacher to hear discourses, verses, or catechisms. Why is that? For a long time, Ananda, have you listened to the teachings, retained them, discussed them, accumulated them, examined them with your mind, and penetrated them well in terms of your views. But as for talk that is scrupulous, conducive to release of awareness, and leads exclusively to disenchantment, dispassion, cessation, calm, direct knowledge, self-awakening, & Unbinding — i.e., talk on modesty, contentment, seclusion, non-entanglement, arousing persistence, virtue, concentration, discernment, release, and the knowledge & vision of release: It's for the sake of hearing talk of this sort that it is proper for a disciple to follow after the Teacher as if yoked to him.

– Này Ananda, thật không xứng đáng cho một đệ tử bám sát theo vị đạo sư, nếu v́ lư do được nghe giải thích khế kinh và phúng tụng. V́ cớ sao ? Trong một thời gian lâu dài, các pháp đă được các Ông nghe, thọ tŕ, đọc lớn tiếng, suy tư với ư, khéo thấu hiểu với chánh trí. Nhưng này Ananda, đối với những lời nói nào, khắc khổ, khai tâm đưa đến nhất hướng viễn ly, ly tham, đoạn diệt an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn như là thiểu dục luận, tri túc luận, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri kiến luận. Này Ananda, do nhân duyên những loại thuyết luận như vậy, thật xứng đáng cho một Thanh văn đệ tử bám sát vị Đạo sư dầu cho bị hất hủi.

 

"This being the case, there is the teacher's undoing, there is the student's undoing, there is the undoing of one who leads the holy life.

Sự kiện là như vậy, này Ananda, thời có sự phiền lụy (upaddava) cho vị Đạo sư; sự kiện là như vậy, thời có sự phiền lụy do đệ tử; sự kiện là như vậy, thời có sự phiền lụy cho các vị tu Phạm hạnh.

 

"And how is there the teacher's undoing? There is the case there a certain teacher4 resorts to a secluded dwelling: a wilderness, the shade of a tree, a mountain, a glen, a hillside cave, a charnel ground, a forest grove, the open air, a heap of straw. While he is living thus secluded, brahmans & householders from town & countryside visit him. When they visit him, he gets smitten with things that infatuate, falls into greed, and reverts to luxury. This is called a teacher undone with a teacher's undoing. He has been struck down by evil, unskillful qualities that defile, that lead to further becoming, are troublesome, ripen in pain, and lead to future birth, aging, & death. Such is the teacher's undoing.5

Và này Ananda, như thế nào là sự phiền lụy cho vị Đạo sư ? Ở đây, này Ananda, có Đạo sư lựa một trú xứ (senasanam) xa vắng trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại băi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của Đạo sư. V́ sự phiền lụy của Đạo sư, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh, đáng sợ hăi, đưa đến khổ quả dẫn đến sanh, già, chết trong tương lai, các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của Đạo sư.

 

"And how is there the student's undoing? A student of that teacher, imitating his teacher's seclusion, resorts to a secluded dwelling: a wilderness, the shade of a tree... a heap of straw. While he is living thus secluded, brahmans & householders from town & countryside visit him. When they visit him, he gets smitten with things that infatuate, falls into greed, and reverts to luxury. This is called a student undone with a student's undoing. He has been struck down by evil, unskillful qualities that defile, that lead to further becoming, are troublesome, ripen in pain, and lead to future birth, aging, & death. Such is the student's undoing.

Này Ananda, thế nào là sự phiền lụy của đệ tử ? Này Ananda, đệ tử của một Đạo sư, bắt chước đời sống viễn ly của Đạo sư ḿnh, lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại băi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân với quốc dân bao vây xung quanh. Được các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây cung quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của đệ tử. V́ sự phiền lụy của đệ tử, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh, đáng sợ hăi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh, già, chết trong tương lai; các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của đệ tử.

 

"And how is there the undoing of one who leads the holy life? There is the case where a Tathagata arises in the world, worthy and rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine & human beings, awakened, blessed. He resorts to a secluded dwelling: a wilderness, the shade of a tree, a mountain, a glen, a hillside cave, a charnel ground, a forest grove, the open air, a heap of straw. While he is living thus secluded, brahmans & householders from town & countryside visit him. When they visit him, he doesn't get smitten with things that infatuate, doesn't fall into greed, doesn't revert to luxury. A student of that teacher, imitating his teacher's seclusion, resorts to a secluded dwelling: a wilderness, the shade of a tree... a heap of straw. While he is living thus secluded, brahmans & householders from town & countryside visit him. When they visit him, he gets smitten with things that infatuate, falls into greed, and reverts to luxury. This is called one following the holy life who is undone with the undoing of one who leads the holy life. He has been struck down by evil, unskillful qualities that defile, that lead to further becoming, are troublesome, ripen in pain, and lead to future birth, aging, & death. Such is the undoing of one who leads the holy life.

Và này Ananda, như thế nào là sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh ? Ở đây, này Ananda, Như Lai xuất hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại băi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong khi Ngài sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, Ngài không khởi lên nhiễm tâm, không rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái, không trở lui lại đời sống sung túc. Nhưng này Ananda, vị đệ tử của bậc Đạo sư chủ tâm theo (hạnh) viễn ly của bậc Đạo sư, bắt chước (theo hạnh ấy) lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại băi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời, trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lại đời sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh. V́ sự phiền lụy của Phạm hạnh, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh đáng sợ hăi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh, già, chết trong tương lai, các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh.

 

"And in this regard, Ananda, the undoing of one who leads the holy life ripens in more pain, more bitterness, than the teacher's undoing or the student's undoing. It leads even to the states of deprivation.

Nhưng này Ananda, sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh là nhiều quả khổ hơn, nhiều quả năo hơn đối với phiền lụy của Đạo sư này và phiền lụy của đệ tử này, hơn nữa nó dẫn đến đọa lạc.

 

"Therefore, Ananda, engage with me as friends and not as opponents. That will be for your long-term well-being & happiness.

Do vậy, này Ananda, hăy đối xử với Ta, với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch, và như vậy các Ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài.

 

"And how do students engage with the teacher as opponents and not as friends? There is the case where a teacher teaches the Dhamma to his students sympathetically, seeking their well-being, out of sympathy: 'This is for your well-being; this is for your happiness.' His disciples do not listen or lend ear or apply their minds to gnosis. Turning aside, they stray from the Teacher's message. This is how students engage with the teacher as opponents and not as friends.6

Và như thế nào là các đệ tử đối xử vị Đạo sư với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu ? Ở đây, này Ananda, vị Đạo sư ấy với ḷng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, mong cầu hạnh phúc cho họ, v́ ḷng từ mẫn nói rằng : "Đây là hạnh phúc cho các Ông, đây là an lạc cho các Ông". Nhưng các đệ tử của vị ấy không chịu nghe theo, không chịu lóng tai, chú tâm vào hướng khác (annan), ngược lại, họ đi xa lời giảng dạy của vị Đạo sư. Như vậy, này Ananda, là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu.

 

"And how do students engage with the teacher friends and not as opponents? There is the case where a teacher teaches the Dhamma to his students sympathetically, seeking their well-being, out of sympathy: 'This is for your well-being; this is for your happiness.' His disciples listen, lend ear, & apply their minds to gnosis. Not turning aside, they don't stray from the Teacher's message. This is how students engage with the friends and not as opponents.

Và như thế nào, này Ananda, là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch ? Ở đây, này Ananda, vị Đạo sư với ḷng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, t́m cầu hạnh phúc cho họ, v́ ḷng từ mẫn nói rằng : "Đây là hạnh phúc cho các Ông, đây là an lạc cho các Ông". Các đệ tử của vị ấy chịu nghe theo, chịu lóng tai, không chú tâm vào hướng khác, và không ngược lại đi xa lời dạy của bậc Đạo sư. Như vậy, này Ananda, là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thân hữu, không phải với tâm thù nghịch.

 

"Therefore, Ananda, engage with me friends and not as opponents. That will be for your long-term well-being & happiness.

Do vậy, này Ananda, hăy đối xử với Ta, với tâm thân hữu, chớ với tâm thù nghịch và như vậy sẽ là hạnh phúc, là an lạc lâu dài cho các Ông.

 

"I won't hover over you like a potter over damp, unbaked clay goods. Scolding again & again, I will speak. Urging you on again & again, I will speak. Whatever is of essential worth will remain."

Ta không sách tấn các Ông như người thợ gốm đối với các đồ gốm chưa nung, chưa được nung chín. Ta sẽ nói hết lời chỉ trích này đến lời chỉ trích khác, hết lời tán thán này đến lời tán thán khác. Cái ǵ là lơi cây, cái ấy sẽ đứng vững tồn tại.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, Ven. Ananda delighted in the Blessed One's words.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Notes

1. See AN 8.86.

2. Because all three types of emptiness apply both internally and externally, it would seem that when the Buddha mentions external emptiness here, he could be referring to the way any of the three types of emptiness applies to external phenomena. Similarly, when he mentions internal emptiness, he could be referring to the way any of them applies within.

3. See MN 106.

4. I.e., a non-Buddhist teacher.

5. See Iti 109.

6. See MN 137.

 

See also: MN 121; SN 35.85; AN 5.30; AN 6.42; AN 8.30; Sn 1.3

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |